CÂU HỎI ÔN TẬP, THẢO LUẬN VẤN
ĐỀ 1
Câu hỏi ôn tập:
1.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là gì? Nó được
hiểu theo mấy nghĩa? Vị trí của chủ nghĩa xã hội khoa học trong hệ thống lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin?
2.
Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa xã hội
khoa học là gì? Phân biệt với đối tượng của triết học, kinh tế chính trị học
Mác - Lênin?
3.
Chủ nghĩa xã hội khoa học có những phương
pháp nghiên cứu nào? Trình bày những phương pháp đó?
Câu
hỏi thảo luận
1.
Phân tích chức năng của triết học Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học? Hai
môn học này có quan hệ với nhau như thế nào?
2.
Ý nghĩa nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học ở Việt Nam hiện nay?
CÂU
HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN VẤN
ĐỀ 2
Câu hỏi ôn tập:
1. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là gì? Tư
tưởng cộng sản chủ nghĩa là gì? Chúng ra đời khi nào? Sự khác nhau giữa tư
tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
2.
Chủ nghiã xã hội không tưởng là gì? Khái quát quá trình phát triển của
nó?
3. Phân tích những giá trị và những hạn
chế của chủ nghĩa xã hội không tưởng? nguyên nhân những hạn chế đó?
a.
Phân tích
những tiền đề và điều kiện cho sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học?
b.
Hãy làm rõ
vai trò của Mác- Ăngghen đối với sự ra đời chủ nghãi xã hội khoa học?
c.
Chủ nghĩa xã
hội khao học có quá trình phát triển như thế nào?
VẤN
ĐỀ 3
Câu hỏi thảo luận:
1.Tại sao nói chủ nghĩa xã hội không
tưởng là một trong ba tiền đề lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học?
2.Tại sao nói sự ra đời của chủ nghĩa
Mác nói chung và chủ Nghĩa xã hội nói riêng vào nửa đầu thế kỷ XIX là một tất
yếu?
3. Cống hiến của Chủ Tịch Hồ Chí Minh,
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
xã hội khoa học là gì?
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN VẤN
ĐỀ 4
Câu hỏi ôn
tập:
1.
Giai cấp công nhân là gì? Sứ mệnh lịch sử
của nó? Vì sao giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử đó?
2.
Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh
lịch sử giai cấp công nhân?
3.
Những điều kiện chủ quan để giai cấp công
nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giá cấp công nhân?
4.
Tại sao nói Đảng cộng sản là nhân tố
quyết định thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giái cấp công nhân?
5.
Những đặc điểm riêng của giai cấp công nhân
Việt Nam?
Những đặc điểm đó ảnh hưởng thế nào tới thực hiện sứ mệnh lịch sử giái cấp công
nhân ở nước ta như thế nào ?
Câu hỏi thảo
luận:
1.
Những thay đổi về chất lượng của giai cấp
công nhân trong xã hội tư bản hiện nay có làm thay đổi sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân hiện nay không? Hãy phê phán những quan điểm tư sản đang tìm cách
phủ định sứ mệnh lịch sử của giái cấp công nhân?
2.
Anh ( chị) hãy phân tích làm rõ sự sáng tạo
trong xây dựng Đảng của Đảng Công Sản Việt nam? Hiện nay để hoàn thành trách
nhiệm của mình Đảng Cộng sản phải chỉnh đốn và đổi mới sự lãnh đạo như thế nào?
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN VẤN ĐỀ 5
Câu hỏi ôn tập:
1.
Hãy nêu và phân tích nguyên nhân khách quan
và chủ quan của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2.
Hãy phân tích mục tiêu, những nội dung và
động lực của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
3.
Những nội dung tư tưởng cách mạng không
ngừng của Mác là gì?
4.
Những nội dung lý luận cách mạng dân tộc, dân
chủ, nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa là tất yếu.
5.
Vì sao Việt Nam chuyển cách mạng dân tộc,
dân chủ, nhân dân lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa là tất yếu?
Câu
hỏi thảo luận:
1.
Hiện nay cách mạng chủ nghĩa có phải là
tất yếu không? Vì sao?
2.
Tại sao nói Việt Nam quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là một tất yếu? Nêu một số thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam
20 năm qua?
CÂU HỎI ÔN TẬP, THẢO LUẬN VẤN ĐỀ 6
Câu hỏi ôn tập:
1.
Thời đại là gì? Những nội dung cơ bản của
thời đại ngày nay ?
2.
Tính chất thời đại ngày nay là gì? Những
mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay?
3.
Phân tích những đặc điểm cơ bản của thời
đại ngày nay? Ý nghĩa nghiên cứu những đặc điểm thời đại đối với chúng ta hiện
nay?
4.
Phân tích những xu thế của thời đại ngày
nay? Ý nghĩa việc nghiên cứu những đặc điểm này đối với chúng ta hiện nay?
Câu
hỏi thảo luận:
1.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ có
những tác động gì tới sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay?
+
Cần làm rõ những tác động tích cực và tiêu cực
+
Chúng ta làm gì để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực đó?
2.
Nhiệm vụ của thanh niên sinh viên đối với
đất nước trong gai đọan hiện nay ở Việt Nam? Thời cơ và thách thức?
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN VẤN ĐỀ 7
Câu hỏi ôn tập:
6.
Hãy nêu và phân tích nguyên nhân khách
quan và chủ quan của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
7.
Hãy phân tích mục tiêu, những nội dung và
động lực của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
8.
Những nội dung tư tưởng cách mạng không
ngừng của Mác là gì?
9.
Những nội dung lý luận cách mạng dân tộc, dân
chủ, nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa là tất yếu.
10.
Vì sao Việt Nam chuyển cách mạng dân tộc,
dân chủ, nhân dân lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa là tất yếu?
Câu
hỏi thảo luận:
3.
Hiện nay cách mạng xã hội chủ nghĩa có
phải là tất yếu không? Vì sao?
4.
Tại sao nói quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
là một tất yếu? Nêu một số thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 20 năm qua?
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN VẤN ĐỀ 8
Câu
hỏi ôn tập:
1.
Quan niệm về dân chủ đã có quá trình phát triển như thế nào? Bản chất của dân
chủ xã hội chủ nghĩa?
2.
Hãy trình bày cấu trúc và hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa?
3.
Hãy nêu và phân tích những thành tựu và hạn chế trong đổi mới hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa và mở rộng dân chủ trong đời sống xã hội trong những năm
qua ở Việt Nam?
4.
Hãy nêu lên những nội dung đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động bộ
máy nhà nước và những tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay?
5.
Nêu và phân tích những nội dung cơ bản trong cải cách bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay?
Câu hỏi thảo luận:
1.
Anh (chị) cho biết có dân chủ phi giai
cấp không? Vì sao? Dân chủ phụ thuộc vào những yếu tố nào? Vì sao?
2.
Bằng lý luận và thực tiễn anh ( chị) hãy
phân tích câu nói của Lênin: “ Dân chủ vô sản dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư
sản”
3.
Giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản với xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghiã có mâu thuẫn nhau không?
Vì sao ?
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN VẤN ĐỀ 9
Câu
hỏi ôn tập:
1.
Cơ cấu xã hội là gì? Hãy nêu một số cơ cấu trong xã hội
2.
Cơ cấu xã hội - giai cấp là gì? Vị trí của cơ cấu xã hội - giai cấp trong xã
hội.
3.
Hãy nêu và phân tích những xu hướng và tính quy luật của sự biến đổi cơ cấu xã
hội - giai cấp trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
4.
Vì sao chúng ta phải xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội?
5.
Những nội dung xây dựng khối liên minh công – nông - trí thức là gì? Nội dung
nào là quan trọng nhất? vì sao?
6.
Hãy nêu và phân tích đặc điểm cơ cấu xã hội - giai cấp trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Xu hướng biến đổi của nó.
7.
Hãy nêu những nội dung của liên minh công – nông - trí thức ở Việt Nam hiện nay?
Câu
hỏ thảo luận:
1.
Nghiên cứu cơ cấu xã hội - giai cấp, mối quan hệ của nó với cơ cấu kinh tế có ý
nghiã gì đối với chúng ta hiện nay? Việt Nam hiện nay có những thành phần
kinh tế và những giai cấp nào?
2.
Xây dựng khối liên minh công – nông - trí thức ở Việt Nam có những
thuận lợi và khó khăn gì trong qúa trình cách mạng?
VẤN ĐỀ 10
Câu
hỏi ôn tập:
1.
Dân tộc là gì? Khái niệm dân tộc có mấy
nghĩa? Nêu các nghĩa đó?
2.
Phân tích hai xu hướng của phong trào dân
tộc? sự biểu hiện hai xu hướng đó trong thời đại ngày nay?
3.
Phân tích nội dung “ cương lĩnh dân tộc”
của Đảng Cộng sản do Lênin đưa ra?
4.
Hãy phân tích nnhững đặc điểm quan hệ dân
tộc ở việt Nam?
những đặc điểm đó có thuận lợi và khó khăn gì trong xây dựng khối địa đoàn kết
dân tộc ở Việt Nam?
5.
Những thành tựu và hạn chế trong xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam những năm qua? Những nguyên
nhân của chúng?
6.
Hãy nêu những nội dung cần thực hiện để
tăng cường củng cố khối đại đoàn kết dân tộc
ở Việt Nam
hiện nay?
Câu hỏi thảo luận:
1. Quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vần đề
dân tộcnhư thế nào? Vì sao muốn giải phóng dân tộc một cách triệt để lại phải
xoá bỏ tình trạng áp bức giai cấp?
2.
Hai xu hướng của phong trào dân tộc hiện nay được biểu hiện như thế nào? Chúng
ta cần phải làm gì để đảm bảo sự thống nhất giữa hai xu hướng đó?
VẤN ĐỀ 11
Câu hỏi ôn tập:
Phân tích nguồn gốc, bản chất, tínhchất
của tôn giáo?
Ăng - ghen
viết: “Bản chất của tôn giáo chẳng qua
chỉ là sự phản ánh hư ảo hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người
mang hình thức siêu trần thế và bị những lực lượng ấy chi phối cuộc sống hàng
ngày của họ”.
- Tôn giáo
ra đời do những nguồn gốc sau đây:
a. Nguồn gốc kinh tế - xã
hội:
Từ xa xưa,
thời nguyên thủy, do điều kiện sinh hoạt vật chất, trình độ thấp kém, con người
cảm thấy yếu đuối, bất lực trước các hiện tượng của thiên nhiên như động đất,
núi lửa, nhật thực, nguyệt thực, bão lụt…. Họ không thể giải thích được các
hiện tượng khủng khiếp đó là do từ đâu. Từ chỗ không thể lý giải được trên cơ
sở đó mà người ta đã tưởng tượng ra các vị thần cho mình để cầu xin những điều
mình mong muốn, cầu xin được che chở, được tha thứ.
b. Nguồn gốc xã hội:
Từ khi xã
hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, các mối quan hệ xã hội ngày càng phức
tạp những hiện tượng như bóc lột, bị bóc lột, bất công trong xã hội, những yếu
tố tự phát, ngẫu nhiên trong gia đình, tình yêu tan vỡ, làm ăn thua lỗ, may rủi
nằm ngoài ý muốn và khả năng điều chỉnh của con người với những hậu quả khó
lường con người lại một lần nữa bất lực trước những hiện tượng nảy sinh trong
xã hội. Họ không biết vì sao? Chẳng qua chỉ là cái. Vì vậy, muốn tránh được tai
qua nạn khỏi người ta lại một lần nữa con người lại đến với tôn giáo để xin
được chở che tha thứ.
c. Nguồn gốc nhận thức:
Ngay từ thời
cổ đại xa xưa con người đã đặt câu hỏi, thế giới xung quanh chúng ta là gì, do
đâu mà có, con người từ đâu sinh ra, chết rồi sẽ đi về đâu? Để trả lời cho câu
hỏi này mà từ đó đã có rất nhiều các quan niệm khác nhau và cũng do trình độ tư
duy trừu tượng khác nhau mà dẫn đến nhận thức sai lệch các hiện tượng trong thế
giới khách quan, vì vậy có thể nói tôn giáo là sản phẩm của con người gắn liền với điều kiện tự nhiên xã hội nhất
định. Do đó xét về bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất
lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội,
b. Nguồn
gốc tâm lý:
La-ti-lúc-rê-sơ
thi sĩ nổi tiếng của Hy Lạp thời cổ đại (thế kỷ I trước Công Nguyên) đã nhận
xét: sự sợ hãi sinh ra thần linh, cũng trên tinh thần ấy Lênin đã phát triển và
phân tích làm rõ hơn: trong xã hội tư bản “quần
chúng nhân dân không thể đoán trước được, vì bất cứ lúc nào những người vô sản,
những tiểu thương, tiểu chủ cũng bị đe dọa phá sản đột ngột, bất ngờ, ngẫu
nhiên, làm cho họ phải trở thành người ăn xin, kẻ bần cùng, dồn họ vào cảnh
chết đói”. Đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại. Nhưng không
chỉ từ sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát của tự nhiên mà ngay cả các hiện tượng
tích cực như tình yêu, lòng biết ơn, sự kính trọng tổ tiên và những người có
công mở mang bờ cõi, tạo dựng nghề nghiệp cũng được con người tôn thờ qua hình
ảnh tôn giáo, tín ngưỡng.
- Tôn giáo
có những tính chất sau đây:
a.
Tính lịch sử của tôn giáo:
Lịch sử xã
hội loài người đã tồn tại hàng vạn năm không có tôn giáo, tôn giáo chỉ ra đời
khi con người đã đạt tới trình độ tư duy trừu tượng nhất định. Do đó tôn giáo
không phải là hiện tượng vĩnh hằng, bất biến, mà nó sẽ mất đi khi khoa học có
đủ khả năng giải đáp những hiện tượng bí ẩn trong thiên nhiên, nhưng cơ bản
nhất, quyết định nhất vẫn là chế độ chính trị, tức là khi xã hội không còn hiện
tượng áp bức bất công, đói nghèo, thì lúc đó tôn giáo không còn lý do gì để tồn
tại và vai trò lịch sử của tôn giáo cũng chấm dứt, do đó giải quyết vấn đề tôn
giáo không phải là một sớm một chiều, mà nó còn tồn tại lâu dài.
b. Tính quần chúng
Ngay từ khi
ra đời tôn giáo cũng đã đáp ứng được một số nhu cầu tâm linh của quần chúng mà
ở đời thường người ta chưa có khả năng giải quyết, nó phản ánh khát vọng về nhu
cầu hạnh phúc hư ảo của thế giới bên kia, phản ánh nguyện vọng của những người bị
áp bức mơ ước về một xã hội bình đẳng, bác ái, đồng thời tôn giáo còn là một
nhu cầu để giáo dục lòng nhân đạo, hướng thiện, nó đã trở thành tâm lý, thành
đạo đức, lối sống của một bộ phận quần chúng từ bao đời nay. chính vì vậy mà Mác viết: “ Tôn
giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức” …. “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân “
c. Tính chính trị
Nếu như ở
thời kỳ nguyên thủy, tôn giáo chỉ là sự phản ánh nhận thức một cách hồn nhiên
ngây thơ về thế giới xung quanh, nhưng từ khi xã hội có sự phân chia thành giai
cấp, các giai cấp thống trị đã sử dụng tôn giáo như một vũ khí tinh thần, là
một phương tiện đắc lực phục vụ cho sự thống trị của mình. Những cuộc chiến
tranh tôn giáo đã và đang xảy ra, thực chất vẫn là sự xung đột về lợi ích vật
chất của những lực lượng xã hội khác nhau. Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ
thì tôn giáo thường là một bộ phận của đấu tranh giai cấp.
Ngày nay,
tôn giáo không giảm đi, mà ngược lại tôn giáo đang phát triển mạnh mẽ và rất
phức tạp không chỉ ở một địa phương, một quốc gia mà nó đã trở thành một hệ
thống tổ chức ngày càng chặt chẽ, rộng lớn trên phạm vi quốc tế với vai trò,
thế lực không nhỏ trên toàn cầu được trang bị phương tiện hoạt động hiện đại;
không chỉ trong lĩnh vực tư tưởng, mà cả trong lĩnh vực kinh tế, chính trị văn
hóa, xã hội, do đó chúng ta cần phải có nhận thức; tôn giáo một mặt thỏa mãn
nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân mặt khác trên thực tế,
tôn giáo đã và đang bị các lực lượng chính trị sử dụng cho mục đích ngoài tôn
giáo.
Tóm lai, bản
chất của tôn giáo là sự phản ánh hư ảo hiện thực khách quan vào trong đầu óc
của con người và bị những hình ảnh ấy chi phối cuộc sống hàng ngày của họ.
Vì sao trong quá trình xây dựng xã hội
chủ nghĩa tôn giáo vẫn tồn tại? Nguyên nhân tồn tại tôn giáo trong xã hội – xã
hội chủ nghĩa.
-Trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa tôn giáo vẫn tồn
tại là do những nguyên nhân sau đây:
a.
Nguyên nhân nhận thức:
Ngày nay,
nhân loại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về khoa học tự nhiên cũng như xã
hội, nó giúp cho con người có thêm những khả năng để nhận thức về thế giới,
nhiều bí mật được hé mở. Song thế giới là vô cùng, vô tận mà nhận thức con
người chỉ có giới hạn, vẫn còn nhiều vấn đề mà khoa học vẫn chưa thể làm rõ.
Những sức mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội vẫn còn tác động, chi phối đến đời
sống của con người, nên tâm lý sợ hãi, nhờ cậy và tin tưởng vào thần, thánh,
phật, chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của con người.
b.
Nguyên nhân tâm lý:
Tôn giáo là
một trong những hình thái ý thức xã hội có tính bảo thủ nhất trong các hình
thái ý thức xã hội, mặc dù ngày nay đã có những biến đổi to lớn nhưng ý thức về
tín ngưỡng, tôn giáo cũng không thay đổi kịp với tiến bộ của những biến đổi về
kinh tế, xã hội mà nó phản ánh, mặt khác ý thức về tôn giáo nó đã được hình
thành sâu đậm vào đời sống tinh thần của nhiều thế hệ đến mức nó đã trở thành
đạo đức văn hóa lối sống
c.
Nguyên nhân chính trị:
Những giá
trị đạo đức văn hóa tôn giáo tạo nên hiện nay vẫn đang còn có tính tích cực góp
phần vào việc giáo dục đạo đức lối sống cũng như đáp ứng được một số nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân, do đó trong xây dựng xã hội mới nếu chúng
ta biết khéo léo vận động tuyên truyền thì tôn giáo cũng có khả năng tự biến
đổi để thích nghi theo xu hướng tôn giáo đồng hành với dân tộc, sống tốt đời,
đẹp đạo, sống phúc âm giữa lòng dân tộc thì dù cho các thế lực phản động đế
quốc có lôi kéo lợi dụng kích động tôn giáo gây xung đột tôn giáo, sắc tộc,
khủng bố, bạo loạn, lật đổ thì chúng cũng không thể nào đạt được.
d.
Nguyên nhân kinh tế:
Trong
chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
vẫn còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với
những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, sự bất bình
đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, nên những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi
trong đời sống vẫn đang diễn ra, những vấn đề đó đã tác động đến tâm lý làm cho
con người trở nên thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên
cũng là điều dễ hiểu.
e.
Nguyên nhân về văn hóa:
Sinh hoạt
tín ngưỡng, tôn giáo trong nhân dân từ ngàn đời nay nó đã trở thành một nhu cầu
văn hóa tinh thần, trở thành đạo đức, lối sống của một bộ phận quần chúng nhân
dân. Vì vậy, việc kế thừa, bảo tồn và phát huy văn hóa của nhân loại, trong đó
việc kế thừa đạo đức văn hóa tôn giáo là việc cần thiết. Mặt khác, tín ngưỡng,
tôn giáo còn có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận lớn dân cư, do
đó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn
giáo là một hiện tượng xã hội khách quan. Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế
nhị, nhạy cảm và phức tạp. Vì vậy, giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo
cần phải hết sức thận trọng, mềm dẽo và phải giữ vững nguyên tắc trên tinh thần
của chủ nghĩa Mác - Lênin là không tuyên chiến với tôn giáo.
2. Giải quyết vấn đề tôn giáo phải dựa trên
những quan điểm sau
+ Một là, chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội, xã
hội chủ nghĩa và hệ tư tưởng của tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới
quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Với hệ thống
tín điều và giáo lý của mình, tôn giáo phần nào hạn chế khả năng vươn lên làm
chủ của con người. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo
trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội; là yêu cầu
khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Hai là, một khi tín ngưỡng, tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận quần chúng nhân dân thì chính sách nhất quán của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng. Mọi công dân đều có quyền theo hoặc
không theo tôn giáo nào, mọi tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật đều có
quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín
ngưỡng của công dân. Đó là sự thể hiện bản chất của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, thể hiện sự quan tâm của Đảng Nhà nước đến nhu cầu tín ngưỡng của quần
chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải phát huy những nhân tố tích cực của tôn giáo,
đặc biệt là những giá trị đạo đức; chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần yêu nước.
+ Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người
không theo một tôn giáo nào trên cơ sở đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện mục
tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc đúng như lời dạy của Lênin là không tuyên chiến
ầm ĩ với với tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm, những mệnh lệnh ngăn cấm tín
ngưỡng, tôn giáo là những hành vi dại dột, vô chính phủ, làm cho kẻ thù lợi
dụng để kích động tình cảm tôn giáo của tín đồ làm cho họ ngày càng gắn bó với
tôn giáo, xa chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên, như vậy không
có nghĩa là coi nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học, thế giới quan duy
vật cho toàn dân, trong đó có những tín đồ tôn giáo, việc làm đó góp phần nâng
cao trình độ kiến thức cho toàn dân.
+ Bốn là, giải quyết vấn đề tôn giáo phải kiên quyết, thận trọng, có
sách lược và phải coi đây là một nhiệm vụ thường xuyên lâu dài trong đó việc
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các đồng bào có tín ngưỡng là yếu
tố cơ bản nhất. Mặt khác phải luôn nâng cao cảnh giác kịp thời ngăn chặn những
hành động âm mưu chống phá của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để chống
phá cách mạng.
+ Năm là, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau.
1.
2.
Vì sao đưới chủ nghĩa xã hội tôn giáo vẫn
tồn tại?
3.
Hãy trình bày những quan điểm của chủ nghĩa
Mác- Lênin trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội?
4.
Hãy nêu một số nét khái quát tình hình
tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay?
5.
Hãy nêu những quan điểm và chính sách tín
ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta?
Câu hỏi thảo luận:
1.
Phân tích sự giống nhau và khác nhau giữa
tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín đị đoan? những hoạt động này ở Việt Nam hiện
nay? Cần làm gì để giảm mê tín dị đoan?
MỘT SỐ CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN
Câu hỏi ôn tập
1. Phân tích khái niệm gia đình và những
đặc trưng của nó? Khái niệm và kết cấu của gia đình
a.
Gia đình là gì?
Hiện nay có
khá nhiều khái niệm khác nhau, nhưng có hai khái niệm phổ biến và tương đối phù
hợp với tình hình hiện nay.
+ Gia
đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế
văn hóa - xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở các
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các
thành viên.
+ Gia đình là một hình thức tổ chức xã hội đầu
tiên, là tế bào của xã hội, được gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ
huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục.
Gia đình là
đơn vị đầu tiên của xã hội, là tế bào của xã hội được gắn bó với nhau bởi quan
hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống. Đặc trưng của gia đình là sinh hoạt của các
quá trình vật chất như sinh hoạt về kinh tế và sinh hoạt về tinh thần như là
đạo đức, pháp lý, tâm lý. Gia đình không phải là một đơn vị xã hội bất biến mà
nó cũng vận động phát triển cùng với sự thay đổi phát triển của xã hội. Hay nói
một cách khác, tính chất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định đối
với quy mô, kết cấu, hình thức tổ chức và tính chất của gia đình. Do đó, khi
nghiên cứu về quy mô kết cấu gia đình, chúng ta phải xem gia đình vừa là một
nhóm xã hội nhỏ có một tổ chức vừa là một thiết chế xã hội đặc biệt mà các
thành viên trong gia đình ràng buộc với nhau trên cơ sở quan hệ hôn nhân và
quan hệ huyết thống. Có những mối quan hệ phức tạp như quan hệ giữa vợ và
chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với nhau, quan hệ giữa người
thân. Ngoài ra, còn có các mối quan hệ về chính trị, quan hệ văn hóa, quan hệ
kinh tế, quan hệ giáo dục, quan hệ xã hội, v.v… Thực chất, gia đình là một xã
hội thu nhỏ. Khi nghiên cứu về gia đình, trước hết phải nghiên cứu về các kiểu
gia đình đang tồn tại trong xã hội, đồng thời cần phải nghiên cứu xu hướng vận
động và phát triển của gia đình. Dựa trên cơ sở đó có những hướng dẫn, điều
chỉnh các sai lệch và xác lập mô hình gia đình phù hợp với điều kiện kinh tế,
văn hóa xã hội của đất nước trong thời kỳ hiện nay.
Trong xã hội hiện nay, người ta thấy đang tồn
tại một số kiểu gia đình sau đây:
+ Gia đình kép còn gọi là gia đình tiếp nối,
gia đình mở rộng… là kiểu gia đình cùng chung sống trong một mái nhà có từ ba
thế hệ người trở lên. Kiểu đại gia đình này tồn tại phổ biến ở nông thôn Châu
Á. Gia đình kép có những mặt tích cực như giữ gìn, bảo tồn được các tập tục,
các thế hệ có sự gắn bó về mặt tình cảm huyết thống, các thành viên có sự hỗ
trợ lẫn nhau về đời sống… Mặt hạn chế biểu hiện ở chỗ gia đình này thường tạo
ra sự khép kín trong thân tộc, dòng họ dẫn đến chi phối các mối quan hệ xã hội
khác, duy trì những cái lạc hậu trong sinh hoạt lễ nghi rườm rà và dẫn tới các
xung đột, xích mích giữa các thế hệ, các thành viên trong gia đình do sự khác
biệt về tuổi tác, về lối sống… gây ra.
+ Gia đình hạt nhân, chỉ có cha mẹ và con
chung. Loại gia đình này tồn tại khá phổ biến ở các nước phát triển và ở các đô
thị lớn, đến khi con cái đến tuổi trưởng thành khi có gia đình riêng sẽ tách ra
thành một gia đình độc lập, thoát ly khỏi cha mẹ sống tự do, kiểu gia đình này có
hạn chế ở chỗ: mối quan hệ gia đình lỏng lẽo, ảnh hưởng giữa các thế hệ với
nhau tương đối ít, các thành viên gia đình khó có điều kiện kiểm soát hành vi
của nhau.
+ Gia
đình hỗn hợp trong đó chồng, vợ có con riêng và lại có con chung. Đây là kiểu
gia đình có mối quan hệ rất lỏng lẻo (Ở Mỹ hiện nay có tới ¼ là gia đình hỗn
hợp)
+ Gia đình thiếu, là kiểu gia đình trong đó chỉ
có vợ và chồng, do vô sinh, hoặc có thể do vợ chồng không muốn có con… Loại gia
đình này không phổ biến nhiều trong xã hội nhưng vẫn tồn tại như một thực thể.
+ Gia
đình đơn chiếc còn gọi là gia đình khuyết, gia đình không đầy đủ, gia đình mẫu
hệ mới… Đây là kiểu gia đình chỉ có mẹ và con do nhiều lý do: vợ chồng ly hôn,
ly thân; hoặc do người phụ nữ không có chồng nhưng lại có con.
+ Gia
đình đồng giới, cùng nam hoặc cùng nữ kết hôn. Đây là kiểu gia đình bệnh hoạn
phi tự nhiên, không có khả năng tái sinh nòi giống. Một số nước Tây Âu được
pháp luật thừa nhận. Ở Việt Nam, chúng ta phản đối kiểu gia đình này vì nó
không phù hợp với sự phát triển tự nhiên, trái với luân thường đạo lý, trái với
lối sống văn hóa.
-
Khi nghiên cứu về gia đình nhất thiết phải nghiên
cứu về yếu tố kinh tế, văn hóa truyền thống, quy mô gia đình, xem trong mỗi gia
đình có bao nhiêu con là hợp lý, nhằm đảm bảo phát triển cân đối và phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội đất nước. Qui mô và kết cấu của gia đình như thế
nào, ngoài những sự tác động của các nhân tố xã hội thì yếu tố trình độ dân
trí, sự hiểu biết của mỗi cặp vợ chồng là quyết định. Mặt khác, khi nghiên cứu
về gia đình, người ta cũng cần phải quan tâm đến vai trò và tính chất của người
chủ gia đình người chủ ấy là ai, địa vị của họ trong xã hội ra sao?
Tóm lại gia
đình là sản phẩm của lịch sử, là đơn vị đầu tiên của xã hội, là tế bào của xã
hội được liên kết lại với nhau dựa trên cơ sở hôn nhân và huyết thống.
2. Phân tích những chức năng của gia đình
dưới chủ nghiã xã hội? Các quan hệ cơ bản của gia đình
-
Gia
đình có những mối quan hệ cơ bảnsau đây:
+ Quan hệ hôn nhân: hôn nhân là một nhu
cầu sinh lý nhằm sản xuất ra con người để duy trì nòi giống. Cùng với sự phát
triển của xã hội loài người, hôn nhân cũng có lịch sử của nó. Nếu như trong chế
độ cộng sản nguyên thủy, hình thức hôn nhân chủ yếu là quần hôn (hôn nhân tập
thể) thì trong các chế độ tư hữu, hôn nhân được xây dựng trên cơ sở lợi ích của
những người chủ sở hữu và chịu sự chi phối của các quan hệ kinh tế - chính trị
của chế độ xã hội đó. Vì vậy, hôn nhân trong bất cứ thời đại nào cũng cần được
xã hội thừa nhận cả về mặt chuẩn mực văn hóa và truyền thống trong cộng đồng và
pháp luật của chế độ đương thời.
+ Quan hệ huyết thống: do nhu cầu duy trì
và phát triển nòi giống, con người đã sáng tạo ra một thiết chế gia đình, trong
đó quan hệ huyết thống được coi là một quan hệ cơ bản nhất. Tuy nhiên, mối quan
hệ này cũng có những thay đổi theo sự chi phối của các điều kiện kinh tế, văn
hóa, chính trị của xã hội. Nếu như trong chế độ cộng xã nguyên thủy, huyết
thống về bên mẹ được coi là chuẩn mực để tính quan hệ thân tộc xa gần thì đến
chế độ tư hữu huyết thống được coi về đằng cha. Sự phân biệt này chỉ khi nào
không còn chế độ tư hữu.
+ Quan hệ quần tụ trong một mái ấm gia đình:
xuất phát từ nhu cầu tự nhiên, quan hệ lứa đôi cần phải có một nơi cư trú, thời
nguyên thủy người ta chỉ cần một không gian là một hang đá, hốc cây, về sau là
một túp lều tranh đơn sơ, một mái nhà. Mái ấm gia đình là nơi thiêng liêng sẽ
không thay đổi, dù cho mai sau khoa học hiện đại có khám phá sáng tạo ra không
gian sinh tồn mới, nhưng quan niệm về mái ấm gia đình cũng sẽ không mất đi.
Trái lại nó càng được củng cố tăng cường nhờ được trang bị đầy đủ những tiện
nghi hiện đại nhằm tạo thuận lợi hơn.
+ Quan hệ nuôi dưỡng: nuôi dưỡng là một
trách nhiệm, đồng thời còn là một quyền lợi thiêng liêng của các thành viên
trong gia đình đối với nhau. Nuôi dưỡng bao gồm cả việc các bậc cha mẹ, ông bà
nuôi dưỡng con cháu, con cháu chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ, ông bà lúc già, cũng
như việc quan tâm của những người khỏe mạnh đối với các thành viên gặp khó
khăn. Tình cảm thiêng liêng này không thể thay thế được bằng bất kỳ hình thức
nào.
b.
Gia đình có những chức năng cơ bản sau
đây:
+ Chức
năng tái sản xuất ra con người:
sinh sản là một nhu cầu tự nhiên. Nếu không có hoạt động này thì xã hội loài
người sẽ bị diệt vong. Nhưng sinh bao nhiêu là vừa, là đủ. Vấn đề này nó còn
tùy thuộc vào trình độ phát triển của mỗi giai đoạn lịch sử, tùy theo mỗi dân
tộc, mỗi quốc gia mà có chiến lược phát triển dân số phù hợp. Nếu như vào đầu
thời kì đồ đá mới (khoảng mười ngàn năm trước đây) các bộ lạc nguyên thủy chỉ
xấp xỉ khoảng 1 triệu người được phân bố rải rác trên các lục địa. Đầu công
nguyên dân số trên trái đất có chừng 150 - 200 triệu người. Năm 1000 sau công
nguyên đã có gần 300 triệu người. Đến nay dân số trên thế giới đã lên đến con
số báo động trên 6 tỷ người. Ở nhiều nước, tốc độ tăng dân số đến chóng mặt, nhất
là ở các nước chậm phát triển, số sinh ra vượt quá mức so với sức sản xuát
lương thực, về điều kiện nhà ở, về điều kiện y tế, giáo dục, về phúc lợi v..v…
Theo báo cáo của Liên hợp quốc thì hiện nay có khoảng 40 triệu người đang sống
trên miệng hố của sự chết đói, nhiều nước Á, Phi, Mĩ La tinh tuổi thọ thấp
(trung bình 35 tuổi) sự thay thế của các thế hệ xảy ra nhanh. Tình hình đó ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển của xã
hội. Vì vậy, vấn đề bùng nổ dân số đang là vấn đề gay gắt đang được đặt ra
không chỉ ở mỗi nước, mà còn là vấn đề chung của toàn nhân loại. Ở nước ta, để
khắc phục tình trạng dân số tăng nhanh, trong khi nền kinh tế đang còn thấp, do
đó chúng ta phải coi nhiệm vụ kế hoạch hóa dân số và giải quyết việc làm cho
người lao động là nhiệm vụ hàng đầu trong chính sách xã hội. Theo thống kê 2004
người ta tính cứ 1 phút có 3 em bé chào đời, thì một năm tăng 1,2 triệu người,
nếu so sánh giữa tăng trưởng kinh tế và mức độ tăng dân số như hiện nay đang là
một vấn đề bức xúc. Vì vậy việc phấn đấu hạ thấp tỷ lệ tăng dân số kết hợp với
việc tổ chức lại lao động, đất đai, ngành nghề làm cho mọi người lao động đều
có việc làm đó là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài nhằm đảm bảo sự
phát triển cân đối về kinh tế - xã hội đem lại cuộc sống văn minh, hạnh phúc
cho nhân dân.
+ Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống của gia
đình: trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, mỗi gia đình đều có thể trở thành một đơn vị kinh tế
tự chủ trong sản xuất kinh doanh, mọi gia đình, mọi cá nhân đều có thể làm giàu
chính đáng bằng sản xuát kinh doanh theo quy định của pháp luật. Đối với các
gia đình công nhân viên chức cũng được khuyến khích tuy các loại gia đình này
không trực tiếp kinh doanh, nhưng cũng có vai trò tác động đến sản xuất qua
lĩnh vực tiêu dùng.
+ Chức năng giáo dục: nội dung giáo dục trong gia đình bao gồm
cả về vật chất lẫn tinh thần, nó là trách nhiệm của các bậc cha mẹ và được thực
hiện ở mọi chu trình sống của con người. Từ lúc còn ẵm ngữa, giai đoạn tuổi
thơ, khi đã trưởng thành, lúc già cả…Ở từng chu trình ấy phải có những nội dung
và hình thức giáo dục phù hợp. Nếu ở giai đoạn tuổi thơ là lời ru của mẹ, tấm
gương sống và làm việc của người thân, những lời nhắn nhủ của cha mẹ, giảng
giải của ông bà và ngay cả trong sinh hoạt tình dục, sinh hoạt tiêu dùng cũng
phải được giáo dục…” học ăn, học nói, học
gói, học mở” “ ăn trông nồi ngồi trông
hướng…” Trong chủ nghĩa xã hội, giáo dục của gia đình có vai trò rất quan
trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực trẻ, xây dựng con người mới có đạo đức,
văn hóa có trí thức. Do đó, giáo dục con người phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa
gia đình, nhà trường, xã hội.
+ Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý tình cảm: có nhiều vấn đề tâm, sinh lý chỉ có thể bộc lộ và giải
quyết trong phạm vi gia đình với những người thân. Do đó sự hiểu biết tâm sinh
lý, sở thích của nhau để phù hợp với mỗi thành viên là rất cần thiết.
Tóm lại, gia
đình là thiết chế đa chức năng. Thông qua việc thực hiện những chức năng trên
mà có sự tác động đến sự tiến bộ chung của xã hội. Các chức năng được thực hiện
trong sự thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau, nhưng việc phân chia các chức năng cũng chỉ
là tương đối. Nhiều khi, các chức năng được thực hiện tổng hợp trong một công
việc hoặc nhiều hoạt động của gia đình. Ở từng nơi và các giai đoạn khác nhau,
nội dung và vị trí của mỗi chức năng có sự biến đổi, nhưng dù ở đâu thời đại
nào thì vai trò của người phụ nữ, mà trước hết là người vợ, người mẹ phải là
trung tâm của tình cảm gia đình. Phụ nữ góp công sức nhiều nhất cho công việc
của gia đình, giàu tình yêu và có ý thức hơn vì hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên
trên thực tế vẫn còn hiện tượng đối xử không bình đẳng đã làm cho người phụ nữ
phải gánh vác những công việc nặng nhọc trong gia đình và công việc xã hội.
3. Hãy nêu những điều kiện xây dựng gia
đình mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ? Vai trò, vị trí và các chức
năng của gia đình
Điều kiện và tiền đề kinh tế - xã hội
Tiền đề để
xây dựng gia đình mới, hôn nhân tiến bộ, phải gắn liền với cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa là thủ tiêu chế độ người bóc lột người, đưa nhân dân lao động làm
chủ về tư liệu sản xuất. Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất để thực hiện
bình đẳng giữa nam và nữ. Hiện nay ở nước ta, nền kinh tế đang còn tồn tại
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với mục tiêu
phát triển kinh tế gắn bó với công bằng xã hội, trên cơ sở ai cũng có việc làm,
có thu nhập chính đáng. Đó là điều kiện để thực hiện bình đẳng nam nữ, để từng
bước khắc phục những hạn chế, kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc cũng như tiếp thu các yếu tố tích cực của thời đại trong việc xây dựng
gia đình mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các
điều kiện và tiền đề về chính trị văn hóa - xã hội
a. Điều kiện chính trị: cơ sở pháp lý cho quá trình thực hiện
hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng bình đẳng là luật hôn nhân gia
đình.
b. Điều kiện văn hóa xã hội: Nhà nước tạo mọi điều kiện để mọi công
dân được nâng cao trình độ dân trí trên cơ sở đó để mọi người tự ý thức được
xây dựng gia đình bình đẳng tiến bộ, biết tự chăm sóc sức khỏe, tự biết tạo
việc làm cũng như tự biết tổ chức cuộc sống gia đình nhằm phát triển kinh tế
gia đình và đóng xây dựng xã hội
c.
Điều kiện xã hội: Nhà nước phải có
một hệ thống chính sách như kế hoạch dân số, kế hoạch hóa gia đình, việc làm, y
tế và chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm y tế…
- Gia đình có những vị trí cơ bản sau
đây:
a. Gia đình là tế bào của xã hội: có thể ví toàn xã hội là một cơ thể hoàn
chỉnh, trong đó gia đình là một bộ phận của cơ thể sống. Do đó cuộc sống của
mỗi gia đình hạnh phúc hòa thuận êm ấm thì sẽ có một cơ thể xã hội lành mạnh.
b. Gia đình là một trong những hình thức
biểu hiện trình độ phát triển của kinh tế - xã hội: nếu như trong xã hội nguyên thủy xuất
hiện kiểu gia đình tập thể, hôn nhân cùng huyết thống, hôn nhân đối ngẫu và hôn
nhân cặp đôi là do trình độ của lực lượng sản xuất còn quá thô sơ thấp kém.
Nhưng đến chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và xã hội chủ nghĩa thì về
hình thức tổ chức, quy mô và kết cấu cũng như tính chất của gia đình cũng có sự
khác nhau từ gia đình một vợ, một chồng bất bình đẳng sang gia đình một vợ, một
chồng ngày càng bình đẳng hơn giữa nam và nữ, giữa các thành viên trong gia
đình. Tất cả những bước tiến đó của gia đình đều phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế ở mỗi thời đại lịch sử.
c. Gia đình là một thiết chế đặc thù của xã
hội, là cầu nối giữa các thành viên gia đình với xã hội: trong hệ thống cơ
cấu tổ chức của xã hội, gia đình được coi là một đơn vị xã hội thu nhỏ của xã
hội, một thiết chế đầu tiên. Nhưng thiết chế ấy vận động lại tùy thuộc vào các
giá trị văn hóa truyền thống của mỗi vùng, mỗi địa phương khác nhau và nó được
bộc lộ thông qua hành vi của các thành viên, trong mỗi gia đình và cũng thông
qua các sinh hoạt trong gia đình mà mỗi cá nhân tiếp nhận được các thông tin
của xã hội. Trong các thông tin ấy có cả những cái tốt lẫn cái xấu, gia đình
rất quan trọng trong việc lựa chọn hướng
dẫn tiếp thu những thông tin ấy.
d. Gia đình là tổ ấm thân yêu, là chiếc nôi
nuôi dưỡng cả đời người: từ khi còn là trẻ thơ cho đến khi khôn lớn, đến
lúc về già có nơi nương tựa và sau những ngày lao động mệt nhọc là nơi nghỉ
ngơi phục hồi sức khỏe, thoải mái tinh thần… Ở đó, hằng ngày diễn ra các quan
hệ thiêng liêng sâu đậm giữa vợ chồng, cha con, anh em, những người đồng tâm,
đồng cảm, nâng đỡ nhau suốt cả cuộc đời. Có rất nhiều vấn đề, ngoài môi trường
gia đình, không ở đâu có thể đáp ứng và giải quyết có hiệu quả hơn. Chỉ khi nào
được sự êm ấm trong gia đình thì mỗi cá nhân mới thực sự yên tâm lao động và
một trong những bất hạnh lớn nhất của con người là lâm vào cảnh vô gia cư, gia
đình lục đục, tan nát hoặc cảnh nghèo đói, khốn cùng… Vì vậy, việc xây dựng gia
đình mới là một trong những vấn đề quan trọng của sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng
tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nên phải chú ý hạt nhân cho tốt”.
Gia
đình có những chức năng cơ bản sau đây:
a. Chức năng tái sản xuất ra con người: sinh sản là một nhu cầu tự nhiên. Nếu
không có hoạt động này thì xã hội loài người sẽ bị diệt vong. Nhưng sinh bao
nhiêu là vừa, là đủ. Vấn đề này nó còn tùy thuộc vào trình độ phát triển của
mỗi giai đoạn lịch sử, tùy theo mỗi dân tộc, mỗi quốc gia mà có chiến lược phát
triển dân số phù hợp. Nếu như vào đầu thời kì đồ đá mới (khoảng mười ngàn năm
trước đây) các bộ lạc nguyên thủy chỉ xấp xỉ khoảng 1 triệu người được phân bố
rải rác trên các lục địa. Đầu công nguyên dân số trên trái đất có chừng 150 - 200
triệu người. Năm 1000 sau công nguyên đã có gần 300 triệu người. Đến nay dân số
trên thế giới đã lên đến con số báo động trên 6 tỷ người. Ở nhiều nước, tốc độ
tăng dân số đến chóng mặt, nhất là ở các nước chậm phát triển, số sinh ra vượt
quá mức so với sức sản xuát lương thực, về điều kiện nhà ở, về điều kiện y tế,
giáo dục, về phúc lợi v..v… Theo báo cáo của Liên hợp quốc thì hiện nay có
khoảng 40 triệu người đang sống trên miệng hố của sự chết đói, nhiều nước Á, Phi,
Mĩ La tinh tuổi thọ thấp (trung bình 35 tuổi) sự thay thế của các thế hệ xảy ra
nhanh. Tình hình đó ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của xã hội. Vì vậy, vấn đề bùng nổ dân số
đang là vấn đề gay gắt đang được đặt ra không chỉ ở mỗi nước, mà còn là vấn đề
chung của toàn nhân loại. Ở nước ta, để khắc phục tình trạng dân số tăng nhanh,
trong khi nền kinh tế đang còn thấp, do đó chúng ta phải coi nhiệm vụ kế hoạch
hóa dân số và giải quyết việc làm cho người lao động là nhiệm vụ hàng đầu trong
chính sách xã hội. Theo thống kê 2004 người ta tính cứ 1 phút có 3 em bé chào
đời, thì một năm tăng 1,2 triệu người, nếu so sánh giữa tăng trưởng kinh tế và
mức độ tăng dân số như hiện nay đang là một vấn đề bức xúc. Vì vậy việc phấn
đấu hạ thấp tỷ lệ tăng dân số kết hợp với việc tổ chức lại lao động, đất đai,
ngành nghề làm cho mọi người lao động đều có việc làm đó là nhiệm vụ vừa cấp
bách vừa là nhiệm vụ lâu dài nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối về kinh tế - xã
hội đem lại cuộc sống văn minh, hạnh phúc cho nhân dân.
b. Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống
của gia đình: trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mỗi gia đình đều có thể trở thành một đơn vị
kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh, mọi gia đình, mọi cá nhân đều có thể
làm giàu chính đáng bằng sản xuát kinh doanh theo quy định của pháp luật. Đối
với các gia đình công nhân viên chức cũng được khuyến khích tuy các loại gia
đình này không trực tiếp kinh doanh, nhưng cũng có vai trò tác động đến sản
xuất qua lĩnh vực tiêu dùng.
c. Chức năng giáo dục: nội dung giáo dục trong gia đình bao gồm
cả về vật chất lẫn tinh thần, nó là trách nhiệm của các bậc cha mẹ và được thực
hiện ở mọi chu trình sống của con người. Từ lúc còn ẵm ngữa, giai đoạn tuổi
thơ, khi đã trưởng thành, lúc già cả…Ở từng chu trình ấy phải có những nội dung
và hình thức giáo dục phù hợp. Nếu ở giai đoạn tuổi thơ là lời ru của mẹ, tấm
gương sống và làm việc của người thân, những lời nhắn nhủ của cha mẹ, giảng
giải của ông bà và ngay cả trong sinh hoạt tình dục, sinh hoạt tiêu dùng cũng
phải được giáo dục…” học ăn, học nói, học
gói, học mở” “ ăn trông nồi ngồi trông
hướng…” Trong chủ nghĩa xã hội, giáo dục của gia đình có vai trò rất quan
trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực trẻ, xây dựng con người mới có đạo đức,
văn hóa có trí thức. Do đó, giáo dục con người phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa
gia đình, nhà trường, xã hội.
d. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh
lý tình cảm: có nhiều vấn đề tâm, sinh lý chỉ có thể
bộc lộ và giải quyết trong phạm vi gia đình với những người thân. Do đó sự hiểu
biết tâm sinh lý, sở thích của nhau để phù hợp với mỗi thành viên là rất cần
thiết.
Tóm lại, gia
đình là thiết chế đa chức năng. Thông qua việc thực hiện những chức năng trên
mà có sự tác động đến sự tiến bộ chung của xã hội. Các chức năng được thực hiện
trong sự thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau, nhưng việc phân chia các chức năng cũng chỉ
là tương đối. Nhiều khi, các chức năng được thực hiện tổng hợp trong một công
việc hoặc nhiều hoạt động của gia đình. Ở từng nơi và các giai đoạn khác nhau,
nội dung và vị trí của mỗi chức năng có sự biến đổi, nhưng dù ở đâu thời đại
nào thì vai trò của người phụ nữ, mà trước hết là người vợ, người mẹ phải là
trung tâm của tình cảm gia đình. Phụ nữ góp công sức nhiều nhất cho công việc
của gia đình, giàu tình yêu và có ý thức hơn vì hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên
trên thực tế vẫn còn hiện tượng đối xử không bình đẳng đã làm cho người phụ nữ
phải gánh vác những công việc nặng nhọc trong gia đình và công việc xã hội.
a.
Vai trò của gia đình:
+ Gia đình là một trong những hình thức
biểu hiện trình độ phát triển của kinh tế - xã hội, nếu như trong xã hội nguyên
thủy xuất hiện kiểu gia đình tập thể, hôn nhân cùng huyết thống, hôn nhân đối
ngẫu và hôn nhân cặp đôi là do trình độ của lực lượng sản xuất còn quá thô sơ
thấp kém. Nhưng đến chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và xã hội chủ
nghĩa thì về hình thức tổ chức, quy mô và kết cấu cũng như tính chất của gia
đình cũng có sự khác nhau từ gia đình một vợ, một chồng bất bình đẳng sang gia
đình một vợ, một chồng ngày càng bình đẳng hơn giữa nam và nữ, giữa các thành
viên trong gia đình. Tất cả những bước tiến đó của gia đình đều phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế ở mỗi thời đại lịch sử.
+ Gia
đình là tổ ấm thân yêu, là chiếc nôi nuôi dưỡng cả đời người từ khi còn là trẻ
thơ cho đến khi khôn lớn, đến lúc về già có nơi nương tựa và sau những ngày lao
động mệt nhọc là nơi nghỉ ngơi phục hồi sức khỏe, thoải mái tinh thần… Ở đó,
hằng ngày diễn ra các quan hệ thiêng liêng sâu đậm giữa vợ chồng, cha con, anh
em, những người đồng tâm, đồng cảm, nâng đỡ nhau suốt cả cuộc đời. Có rất nhiều
vấn đề, ngoài môi trường gia đình, không ở đâu có thể đáp ứng và giải quyết có
hiệu quả hơn. Chỉ khi nào được sự êm ấm trong gia đình thì mỗi cá nhân mới thực
sự yên tâm lao động và một trong những bất hạnh lớn nhất của con người là lâm vào
cảnh vô gia cư, gia đình lục đục, tan nát hoặc cảnh nghèo đói, khốn cùng… Vì
vậy, việc xây dựng gia đình mới là một trong những vấn đề quan trọng của sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội,
xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của
xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nên phải chú ý hạt
nhân cho tốt”.
c.
Vị trí của gia đình:
+ Gia đình là tế bào của xã hội: có thể ví toàn
xã hội là một cơ thể hoàn chỉnh, trong đó gia đình là một bộ phận của cơ thể
sống. Do đó cuộc sống của mỗi gia đình hạnh phúc hòa thuận êm ấm thì sẽ có một
cơ thể xã hội lành mạnh.
+ Gia
đình là một thiết chế dặc thù của xã hội, là cầu nối giữa các thành viên gia
đình với xã hội: trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội, gia đình được coi là
một đơn vị xã hội thu nhỏ của xã hội, một thiết chế đầu tiên. Nhưng thiết chế
ấy vận động lại tùy thuộc vào các giá trị văn hóa truyền thống của mỗi vùng,
mỗi địa phương khác nhau và nó được bộc lộ thông qua hành vi của các thành
viên, trong mỗi gia đình và cũng thông qua các sinh hoạt trong gia đình mà mỗi
cá nhân tiếp nhận được các thông tin của xã hội. Trong các thông tin ấy có cả
những cái tốt lẫn cái xấu, gia đình rất quan trọng trong việc lựa chọn
hướng dẫn tiếp thu những thông tin ấy.
d.
Các chức năng cơ bản của gia đình:
+ Chức năng tái sản xuất ra con người, sinh
đẻ là một nhu cầu tự nhiên của mỗi người, mỗi gia đình. Nó vừa là nhu cầu phát
triển của xã hội, nếu không có hoạt động này thì xã hội loài người sẽ bị diệt
vong. Nhưng sinh bao nhiêu là vừa, là đủ. Vấn đề này nó còn tùy thuộc vào trình
độ phát triển của mỗi giai đoạn lịch sử, tùy theo mỗi dân tộc, mỗi quốc gia mà
có chiến lược phát triển dân số phù hợp. Nếu như vào đầu thời kì đồ đá mới
(khoảng mười ngàn năm trước đây) các bộ lạc nguyên thủy chỉ xấp xỉ 1 triệu
người ở rải rác trên các lục địa. Đầu công nguyên dân số trên trái đất có chừng
150 - 200 triệu người. Năm 1000 sau công nguyên có gần 300 triệu người. Đến nay
dân số trên thế giới đã lên đến con số báo động trên 6 tỷ người. Ở nhiều nước,
tốc độ tăng dân số nhất là ở các nước chậm phát triển, số sinh ra vượt quá mức
so với sức sản xuát lương thực, về điều kiện nhà ở, về điều kiện y tế, giáo
dục, về phúc lợi v..v… Theo báo cáo của Liên hợp quốc thì hiện nay có khoảng 40
triệu người đang sống trên miệng hố của sự chết đói, nhiều nước Á, Phi, Mĩ La
tinh tuổi thọ thấp (trung bình 35 tuổi) sự thay thế của các thế hệ xảy ra
nhanh. Tình hình đó ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của xã hội. Vì vậy, vấn đề bùng nổ dân số
đang là vấn đề gay cấn được đặt ra và giải quyết không những ở mỗi nước, mà còn
là vấn đề chung của toàn nhân loại. Ở nước ta, để khắc phục ảnh hưởng không tốt
tình trạng dân số tăng nhanh, trong nền kinh tế còn thấp, chúng ta đang thực
hiện cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Việc kế hoạch hóa gia đình là một yêu
cầu khách quan hợp quy luật phát triển của nước ta. Nó là cơ sở cho việc đặt kế
hoạch về dân số trên quy mô toàn xã hội. Đảng ta coi nhiệm vụ kế hoạch hóa dân
số và giải quyết việc làm cho người lao động là nhiệm vụ hàng đầu trong chính
sách xã hội. Theo thống kê 2004 người ta tính cứ 1 phút có 3 em bé chào đời,
thì một năm tăng 1,2 triệu người, nếu so sánh giữa tăng trưởng kinh tế và mức
độ tăng dân số như hiện nay đang là một vấn đề bức xúc. Vì vậy việc phấn đấu hạ
thấp tỷ lệ tăng dân số kết hợp với việc tổ chức lại lao động, đất đai, ngành
nghề làm cho mọi người lao động đều có việc làm đó là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa
là nhiệm vụ lâu dài nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối về kinh tế - xã hội đem
lại cuộc sống văn minh, hạnh phúc cho nhân dân.
+ Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống của gia
đình, trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, mỗi gia đình đều có thể trở thành một đơn vị kinh tế
tự chủ trong sản xuất kinh doanh, mọi gia đình, mọi cá nhân đều có thể làm giàu
chính đáng bằng sản xuát kinh doanh theo quy định của pháp luật. Đối với các
gia đình công nhân viên chức cũng được khuyến khích tuy các loại gia đình này
không trực tiếp kinh doanh, nhưng cũng có vai trò tác động đến sản xuất qua
lĩnh vực tiêu dùng.
+ Chức năng giáo dục, nội dung giáo dục trong gia đình bao gồm
cả về nuôi dưỡng, chăm lo giáo dục con cái cả về vật chất lẫn tinh thần là
trách nhiệm của các bậc cha mẹ được thực hiện ở mọi chu trình sống của con
người. Từ lúc còn ẵm ngữa, giai đoạn tuổi thơ, khi đã trưởng thành, lúc già
cả…Ở từng chu trình ấy phải có những nội dung và hình thức giáo dục phù hợp.
Nếu ở giai đoạn tuổi thơ là lời ru của mẹ, tấm gương sống và làm việc của người
thân, những lời nhắn nhủ của cha mẹ, giảng giải của ông bà khi sắp trưởng
thành… và ngay cả trong sinh hoạt tình dục, sinh hoạt tiêu dùng cũng phải được
giáo dục…” học ăn, học nói, học gói, học
mở” “ ăn trông nồi ngồi trông hướng…” Trong
chủ nghĩa xã hội, giáo dục của gia đình có vai trò rất quan trọng trong việc
đào tạo nguồn nhân lực trẻ, xây dựng con người mới có đạo đức, văn hóa có trí
thức. Do đó, giáo dục gia đình phải có sự giáo dục chặt chẽ giữa gia đình, nhà
trường, xã hội.
+ Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý tình cảm, có nhiều vấn đề tâm, sinh lý chỉ có thể bộc lộ và giải
quyết trong phạm vi gia đình với những người thân. Do đó sự hiểu biết tâm sinh
lý, sở thích của nhau để phù hợp với mỗi thành viên là rất cần thiết.
Tóm lại, gia
đình là thiết chế đa chức năng. Thông qua việc thực hiện những chức năng trên
mà có sự tác động đến sự tiến bộ chung của xã hội. Các chức năng được thực hiện
trong sự thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau, nhưng việc phân chia các chức năng cũng chỉ
là tương đối. Nhiều khi, các chức năng được thực hiện tổng hợp trong một công
việc hoặc nhiều hoạt động của gia đình. Ở từng nơi và các giai đoạn khác nhau,
nội dung và vị trí của mỗi chức năng có sự biến đổi, nhưng dù ở đâu thời đại
nào thì vai trò của người phụ nữ, mà trước hết là người vợ, người mẹ phải là
trung tâm của tình cảm gia đình. Phụ nữ góp công sức nhiều nhất cho công việc
của gia đình, giàu tình yêu và có ý thức hơn vì hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên
trên thực tế vẫn còn những tư tưởng lạc hậu và đối xử không bình đẳng đã làm
cho người phụ nữ phải gánh vác những công việc nặng nhọc trong gia đình và công
việc xã hội.
2.
Một số nội dung xây dựng gia đình ở Việt
Nam hiện nay
Để có được gia đình ấm no,
bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc ở Việt Nam hiện nay, phải dựa trên các cơ sở
sau đây:
+
Giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, từng bước
xoá đói giảm nghèo đi đôi với tăng cường chăm lo phúc lợi xã hội, chăm sóc sức
khoẻ cộng đồng, kết hoạch hoá gia đình.
+
Giải
phóng phụ nữ và phát huy truyền thống phụ nữ trong gia đình, xã hội được là
thước của sự tiến bộ xã hội.
+ Trong
nghiên cứu khoa học phục vụ hôn nhân và gia đình hiện nay, bên cạnh nghiên cứu
giữ gìn phát huy gia đình truyền thống, cần chú ý hơn nữa đến mô hình gia đình
hiện đại, sự kế thừa, tiếp thu và dung nạp những giá trị tiến bộ của thời đại
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phân tích những định hướng cơ bản của
việc xây dựng gia đình mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay
Những
định hướng cơ bản của việc xây dựng gia đình mới trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay cụ thể là:
a.
Giữ gìn, phát huy văn hóa truyền thống,
loại bỏ những yếu tố tiêu cực, đồng thời tiếp thu văn hóa hiện đại có chọn lọc
Bên cạnh
việc kế thừa những truyền thống, những giá trị tốt đẹp tình làng nghĩa xóm,
tình yêu gia đình gắn chặt với tình yêu quê hương đất nước, dân tộc. Từng bước
khắc phục, loại bỏ các giá trị không phù hợp như cục bộ theo họ tộc, cục bộ
theo địa phương, những nghi lễ rườm rà, tốn kém trong ma chay, cưới hỏi. Sự bất
bình đẳng về giới, và giữa các thế hệ. Trong điều kiện hiện nay, sự chuyển đổi
hệ giá trị từ gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại đang đòi hỏi phải
tiếp thu và chọn lọc các giá trị văn hóa của nhân loại. Những giá trị văn hóa
ấy chỉ có thể được chọn lọc, tiếp thu một khi các giá trị tốt đẹp của gia đình
truyền thống được bảo tồn, được phát huy những nội dung giá trị mới phù hợp với
văn hóa và đạo lý làm người của dân tộc Việt Nam.
b.
Xây dựng gia đình xuất phát từ tình yêu
chân chính:
+ Hôn nhân
tự nguyện tiến bộ là hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính và
nó nhất thiết phải trải qua thời kỳ quá độ từ tình bạn chuyển sang tình yêu,
quá trình đó họ tìm thấy ở nhau những điểm tương đồng sẵn sàng chia sẽ, cùng
nhau xây dựng cuộc sống chung và họ cảm thấy không thể thiếu nhau.
+ Hôn nhân
tự nguyện tiến bộ còn phải được pháp luật thừa nhận bằng tờ đăng ký kết hôn.
Nhưng cũng không bác bỏ sự quan tâm, hướng dẫn của cha mẹ người thân trong gia
đình.
+ Hôn nhân
tự nguyện tiến bộ còn bao gồm tự do ly hôn khi tình yêu không còn nữa. Tuy
nhiên, ly hôn dù bất cứ lý do nào thì hậu quả cũng hết sức nặng nề. Vì vậy, cần
phải có sự hòa giải của các đoàn thể xã hội, của cộng đồng, làng xóm.
c.
Xây dựng gia đình trên cơ sở các quan hệ
bình đẳng, thương yêu:
Cùng nhau
chia sẽ, gánh vác công việc gia đình và xã hội. Vợ chồng phải có quyền lợi và
nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt. Bố mẹ không được phân biệt đối xử với các con,
phải tôn trọng và hướng dẫn những nhu cầu chính đáng của các con. Các con phải
biết ơn, kính trọng, nghe lời khuyên nhủ của bố mẹ và không ngừng học hỏi vươn
lên giữ vững truyền thống tốt đẹp của gia đình. Quan hệ bố mẹ và các con trong
gia đình thường có mâu thuẫn và sự khác biệt giữa các thế hệ là điều khó tránh
khỏi. Do đó, phải tìm ra hướng giải quyết để những mâu thuẫn của sự khác biệt
ấy không dẫn tới xung đột.
Trong gia
đình, cần xây dựng những mối quan hệ tốt giữa anh chị em với nhau. Nếu là những
gia đình có nhiều thế hệ, phải chú ý đến những mối quan hệ khác như ông bà và
cháu chắt; bố mẹ chồng và con dâu; bố mẹ vợ và chàng rễ; chú bác, cô dì và các
cháu… Các quan hệ này cũng được xây dựng trên tinh thần bình đẳng, tình thương
và có trách nhiệm để cho gia đình êm ấm, trở thành tế bào lành mạnh của xã hội.
d. Xây dựng gia đình phải gắn liền với
cộng đồng, với các thiết chế xã hội:
Đoàn kết,
tương trợ thương yêu đùm bọc nhau là một giá trị văn hoá truyền thống lâu đời
của người Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng gia đình mới cần phải
biết giử gìn phát huy truyền thống ấy. Trên cơ sở đó mà xây dựng bổ sung thêm
những quy ước, quy chế dân chủ trong mỗi làng xã, trong mỗi gia đình. Đó chính
là một phương hướng quan trọng trong việc xây dựng gia đình mới ở nước ta,
3.
Hãy trình bày những nội dung chủ yếu xây
dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay
Để
có được gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc ở Việt Nam hiện nay,
phải dựa trên các cơ sở sau đây:
+
Giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, từng bước
xoá đói giảm nghèo đi đôi với tăng cường chăm lo phúc lợi xã hội, chăm sóc sức
khoẻ cộng đồng, kết hoạch hoá gia đình.
+
Giải
phóng phụ nữ và phát huy truyền thống phụ nữ trong gia đình, xã hội được là
thước của sự tiến bộ xã hội.
+ Trong
nghiên cứu khoa học phục vụ hôn nhân và gia đình hiện nay, bên cạnh nghiên cứu
giữ gìn phát huy gia đình truyền thống, cần chú ý hơn nữa đến mô hình gia đình
hiện đại, sự kế thừa, tiếp thu và dung nạp những giá trị tiến bộ của thời đại
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
b.
Giữ gìn, phát huy văn hóa truyền thống,
loại bỏ những yếu tố tiêu cực, đồng thời tiếp thu văn hóa hiện đại có chọn lọc
Bên cạnh
việc kế thừa những truyền thống, những giá trị tốt đẹp tình làng nghĩa xóm,
tình yêu gia đình gắn chặt với tình yêu quê hương đất nước, dân tộc. Từng bước
khắc phục, loại bỏ các giá trị không phù hợp như cục bộ theo họ tộc, cục bộ
theo địa phương, những nghi lễ rườm rà, tốn kém trong ma chay, cưới hỏi. Sự bất
bình đẳng về giới, và giữa các thế hệ. Trong điều kiện hiện nay, sự chuyển đổi
hệ giá trị từ gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại đang đòi hỏi phải
tiếp thu và chọn lọc các giá trị văn hóa của nhân loại. Những giá trị văn hóa
ấy chỉ có thể được chọn lọc, tiếp thu một khi các giá trị tốt đẹp của gia đình
truyền thống được bảo tồn, được phát huy những nội dung giá trị mới phù hợp với
văn hóa và đạo lý làm người của dân tộc Việt Nam.
c.
Xây dựng gia đình xuất phát từ tình yêu
chân chính:
+ Hôn nhân
tự nguyện tiến bộ là hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính và
nó nhất thiết phải trải qua thời kỳ quá độ từ tình bạn chuyển sang tình yêu,
quá trình đó họ tìm thấy ở nhau những điểm tương đồng sẵn sàng chia sẽ, cùng
nhau xây dựng cuộc sống chung và họ cảm thấy không thể thiếu nhau.
+ Hôn nhân
tự nguyện tiến bộ còn phải được pháp luật thừa nhận bằng tờ đăng ký kết hôn.
Nhưng cũng không bác bỏ sự quan tâm, hướng dẫn của cha mẹ người thân trong gia
đình.
+ Hôn nhân
tự nguyện tiến bộ còn bao gồm tự do ly hôn khi tình yêu không còn nữa. Tuy
nhiên, ly hôn dù bất cứ lý do nào thì hậu quả cũng hết sức nặng nề. Vì vậy, cần
phải có sự hòa giải của các đoàn thể xã hội, của cộng đồng, làng xóm.
c.
Xây dựng gia đình trên cơ sở các quan hệ
bình đẳng, thương yêu:
Cùng nhau
chia sẽ, gánh vác công việc gia đình và xã hội. Vợ chồng phải có quyền lợi và
nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt. Bố mẹ không được phân biệt đối xử với các con,
phải tôn trọng và hướng dẫn những nhu cầu chính đáng của các con. Các con phải
biết ơn, kính trọng, nghe lời khuyên nhủ của bố mẹ và không ngừng học hỏi vươn
lên giữ vững truyền thống tốt đẹp của gia đình. Quan hệ bố mẹ và các con trong
gia đình thường có mâu thuẫn và sự khác biệt giữa các thế hệ là điều khó tránh
khỏi. Do đó, phải tìm ra hướng giải quyết để những mâu thuẫn của sự khác biệt
ấy không dẫn tới xung đột.
Trong gia
đình, cần xây dựng những mối quan hệ tốt giữa anh chị em với nhau. Nếu là những
gia đình có nhiều thế hệ, phải chú ý đến những mối quan hệ khác như ông bà và
cháu chắt; bố mẹ chồng và con dâu; bố mẹ vợ và chàng rễ; chú bác, cô dì và các
cháu… Các quan hệ này cũng được xây dựng trên tinh thần bình đẳng, tình thương
và có trách nhiệm để cho gia đình êm ấm, trở thành tế bào lành mạnh của xã hội.
d. Xây dựng gia đình phải gắn liền với
cộng đồng, với các thiết chế xã hội:
Đoàn kết,
tương trợ thương yêu đùm bọc nhau là một giá trị văn hoá truyền thống lâu đời
của người Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng gia đình mới cần phải
biết giử gìn phát huy truyền thống ấy. Trên cơ sở đó mà xây dựng bổ sung thêm
những quy ước, quy chế dân chủ trong mỗi làng xã, trong mỗi gia đình. Đó chính
là một phương hướng quan trọng trong việc xây dựng gia đình mới ở nước ta,
Để có được gia đình ấm no,
bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc ở Việt Nam hiện nay, phải dựa trên các cơ sở
sau đây:
+
Giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, từng bước
xoá đói giảm nghèo đi đôi với tăng cường chăm lo phúc lợi xã hội, chăm sóc sức
khoẻ cộng đồng, kết hoạch hoá gia đình.
+
Giải
phóng phụ nữ và phát huy truyền thống phụ nữ trong gia đình, xã hội được là
thước của sự tiến bộ xã hội.
+ Trong
nghiên cứu khoa học phục vụ hôn nhân và gia đình hiện nay, bên cạnh nghiên cứu
giữ gìn phát huy gia đình truyền thống, cần chú ý hơn nữa đến mô hình gia đình
hiện đại, sự kế thừa, tiếp thu và dung nạp những giá trị tiến bộ của thời đại
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Câu hỏi thảo luận:
1. Nguyên tắc hôn nhân và gia
đình dưới chủ nghĩa xã hội? ( hôn nhân tự nguyện và tiến bộ, thực hiện xây dựng
gia đình bình đẳng, hạnh phúc)
2. Quan niệm của Anh ( chị)
về tình yêu chân chính hiện nay ? Theo anh ( chị) cần giải quyết thế nào cho
đúng mối quan hệ giữa tình yêu và sự nghiệp?
3. Quan niệm của anh ( chị )
về gia đình hạnh phúc? cần làm gì để có một gia đình hạnh phúc?
Câu
hỏi ôn tập:
I.
Nêu và phân tích quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về con người và con người xã hội chủ nghĩa ?
a.
Các quan niệm trước Mác về con người:
- Từ trước đến nay, kể cả ở Phương Đông và
Phương Tây chưa có học thuyết nào làm sang về bản chất của con người, mà chỉ mới
một phần nào làm hé mở được những yếu tố thuộc về bản chất của con người. Song
vẫn chưa được hoàn hảo, thậm chí có một số lý thuyết còn mang tính hoang đường
và lạc hậu.
Trên
cơ sở kế thừa phát triển những tư tưởng của nhân loại, đặc biệt là những tiến bộ
của khoa học tự nhiên vào những năm 40 của thế kỹ XIX. Chủ nghĩa Mác khẳng
định: “bản chất của con người là một thực
thể tự nhiên, một cấu trúc sinh học mang bản chất xã hội”.
+ Con
người là một thực thể tự nhiên, là một bộ phận của tự nhiên. Do đó, con người
cũng bị những quy luật tự nhiên chi phối. Nhưng con ngưòi khác với con vật là
ngay cả như những hành vi có tính bản năng như ăn, ở và giải quyết các vấn đề
sinh lý…ở con người cũng khác hẳn đối với loài vật. Chính vì thế, những quan
niệm thô thiển coi con người chỉ là một loài vật giống như mọi loài động vật
khác chỉ là luận điệu nhằm bênh vực che đậy cho những hành vi mất tính người.
+ Bản
chất xã hội của con người được biểu hiện trong mối quan hệ cá nhân gắn bó với
đồng loại đến mức không thể tách rời, đồng thời lại là những cá nhân không ai
giống ai. Xã hội càng phát triển thì mối quan hệ giữa cộng đồng với cá nhân
càng trở nên bền vững, nhưng mặt khác mỗi con người càng tách biệt thành những
cá nhân độc lập. Vì vậy, sự nghiệp giải phóng con người còn bao hàm cả việc
giải phóng cá nhân khỏi áp bức, bóc lột để họ được sống tự do, bình đẳng tự do
hạnh phúc.
+ Tính
xã hội của con người còn được biểu hiện, con người là một phần tử của một giai
cấp nhất định và thông qua giai cấp mà các cá nhân từng bước nhận rõ lợi ích
riêng của các cá nhân chỉ được thực hiện khi kết hợp với lợi ích chung của giai
cấp. Đồng thời, mỗi cá nhân con người còn mang tính nhân loại và luôn hướng tới
các giá trị nhân loại.
+ Tính xã
hội của con người còn được biểu hiện ở mỗi một thời đại lịch sử đều có một mẫu
người do yêu cầu của chế độ chính trị xã hội đã nhào nặn nên. Ví dụ: con người
thời nô lệ là sống cam chịu, con người phong kiến là trung quân ái quốc, quân
sử thần tử, con người tư bản là trả tiền ngay, tiền trao cháo múc lạnh lùng.
Chính vì vậy Hồ Chủ tịch đã nói: “muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người chủ nghĩa xã hội”
b. Quan
niệm về con người xã hội chủ nghĩa :
- Dựa
trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp thu những giá trị truyền
thống của dân tộc, căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đảng ta đã đề ra
chiến lược xây dựng mô hình con người mới, con người xã hội chủ nghĩa gồm có
những đặc trưng sau:
+ Con
người xã hội chủ nghĩa là con người có đầy đủ trình độ, ý thức và năng lực làm
chủ về kinh tế, chính trị và xã hội v. ..v…
+ Con
người xã hội chủ nghĩa là con người lao động mới, có ý thức về công việc mà
mình đang đảm nhận, lao động có ý thức kỷ luật, có tinh thần hợp tác với đồng
nghiệp, biết đánh giá chất lượng lao động, hiệu quả lao động của bản thân.
+ Con
người xã hội chủ nghĩa là con người sống hiếu thảo với cha mẹ ông bà, có tình
nghĩa với anh em, bạn bè và mọi người xung quanh. Tự ý thức được vai trò vị trí
của mình trong từng mối quan hệ xã hội và giải quyết đúng đắn được những mối
quan hệ đó. Có ý thức nâng cao trình độ trình độ tri thức về mọi mặt, ra sức
rèn luyện sức khoẻ, đảm bảo phát triển toàn diện cá nhân.
+ Con
người xã hội chủ nghĩa là con người giàu lòng yêu nước, thương dân, có tình
thương yêu giai cấp, thương yêu đồng loại, sống nhân văn, nhân đạo, có ý thức
và kiên quyết đấu tranh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ những thành quả
cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù.
2.
Nguồn lực con người là gì? Vai trò, vị trí nguồn lực con người trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội?
- Các nguồn lực có thể khai thác như:
+ Nguồn lực tự nhiên
+ Nguồn lực khoa học - công nghệ
+ Nguồn lực tài chính
+ Nguồn lực từ nước ngoài
+ Nguồn lực con người
Trong tất
cả các nguồn lực nói trên thì nguồn lực con người là cơ bản nhất, bởi lẽ những
nguồn lực khác muốn khai thác có hiệu quả đều phải phụ thuộc vào trình độ năng
lực của con người và một khi đã đưa vào khai thác sử dụng thì ngày càng hao hụt
cạn kiệt. Nhưng nguồn lực con người đặc biệt là trí tuệ càng khai thác thì càng
phát triển. Theo số liệu khảo sát, con người có khoảng 15 tỷ noron thần kinh,
trong suốt cuộc đời của một con người chỉ mới sử dụng khỏang 2%, số còn lại
đang ở dạng tiềm năng, vì vậy trong thế kỷ 21 con người đang là đối tượng khai
thác của chúnh mình.
+ Nguồn nhân lực về xã hội, tức là nói về
chế độ chính trị và môi trường xã hội nơi con người sinh sống. Nếu môi trường
thuận lợi thì con người sẽ phát huy được năng lực ở mức độ tối đa; ngược sẽ bị
kiềm hãm. Vì vậy, việc đề ra những giải pháp nhằm để phát huy tính năng động
sáng tạo của mỗi con người nó vừa là một giải pháp cơ bản, lâu dài vừa là giải
pháp có ý nghĩa tình thế.
+ Nguồn
nhân lực cũng là nói về qui mô dân số. Dân số già hay trẻ, ít hay nhiều, cơ cấu
độ tuổi, sự tiếp nối nhau giữa các thế hệ, giới tính, sự phân bố dân cư giữa
các vùng, các miền của đất nước, giữa các ngành kinh tế, giữa các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
+ Nguồn
lực con người còn là sự bao hàm cả về thể lực, trí tụê, tay nghề, trình độ năng
lực quản lý, mức độ thành thạo trong công việc, phẩm chất đạo đức, tình yêu quê
hương đất nước, ý thức chính trị… Trong các yếu tố trên thì phẩm chất đạo đức
và trình độ học vấn, tay nghề là quan trọng nhất. Nó nói lên mức trưởng thành
của con người, nhân cách, lối sống, xã hội. Vì vậy, xã hội muốn phát triển
nhanh bền vững thì phải quan tâm đến đào tạo nguồn lực con người. Vậy, nguồn
lực con người là gì?
-
Theo
ngân hàng thế giới: Nguồn lực con người
là toàn bộ vốn người, bao gồm cả thể lực, trí lực kỹ năng, nghề nghiệp v. v…mà
mỗi cá nhân sở hữu và có thể huy động được vào trong quá trình sản xuất, kinh
doanh hay trong một hoạt động nào đó…
Từ khái niệm
trên chúng ta có thể hiểu: nguồn lực con người là bao gồm tất cả các yếu tố như
là về thể chất, ý thức chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn và vị
thế xã hội, v. v…Nó tạo nên năng lực của mỗi con người và được huy động, được
tập hợp lại thành một sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng, dân tộc vào việc phát
triển kinh tế - xã hội.
Vai
trò nguồn nhân lực trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin cho
rằng: người lao động trong mọi thời đại đều là chủ thể trong lao động sản xuất,
đặc biệt là trong chủ nghĩa xã hội, họ phải là người được làm chủ những tư liệu
sản xuất và phải được đào tạo có bài bản kiến thức chuyên môn, quản lý kinh tế
thì mới có đủ trình độ để khai thác tiềm năng tài nguyên có hiệu quả.
b.
Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh
vực chính trị:
Khi bàn về
xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Bác Hồ đã nói “chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội để nâng cao đời
sống của nhân dân, thực hiện dân làm chủ xã hội bằng việc chính họ là người lựa
chọn, đề cử những người có đủ đức, đủ tài giữ những vị trí quan trọng trong các
cơ quan chính quyền các cấp, đó phải là những người giỏi về lý luận, sâu sát
với cơ sở, hiểu biết thực tiễn, thấy được trách nhiệm của mình đối với nhân
dân, hết lòng vì nhân dân và thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân thì
việc gì khó khăn mấy dân cũng làm được”.
c.
Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh
vực văn hoá:
Quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin quan niệm, quần chúng lao động là người đã góp phần
xây dựng sáng tạo lên những công trình văn hoá, các tác phẩm nghệ thuật. Do đó,
dưới chủ nghĩa xã hội vai trò ấy lại càng được nâng cao, cũng như tạo điều kiện
để quần chúng biết thưởng thức, bảo vệ truyền thống văn hoá dân tộc và biết
tiếp thu những tinh hoa nghệ thuật quốc tế, loại bỏ những yếu tố không phù hợp
để làm giàu cho nền văn hoá dân tộc mình, làm cho đời sống tinh thần cá nhân
thêm phong phú.
d.
Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh
vực xã hội:
Những vấn
đề xã hội bao gồm: việc làm, công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo, v. v…Muốn
giải quyết những vấn đề này cần phải có sự quan tâm của toàn xã hội.
Tóm lại,
nguồn nhân lực không khai thác, không phát huy được là lãng phí lớn nhất. Đặc
biệt là đối với đội ngũ tri thức càng hoạt động, càng nghiên cứu, càng làm việc
thì trí tuệ của họ càng phong phú, nhạy bén sâu sắc. Nước ta đang còn là một
nước nghèo, kinh tế kém phát triển, thì việc phát huy nguồn lực con người để
xây dựng đất nước càng trở nên quan trọng.
3.
Hãy nêu và phân tích những thành tựu và những hạn chế trong phát huy nguồn lực
con người Việt Nam trong những năm qua ?
a.
Những kết quả đạt được:
Sau cách
mạng tháng 8/1945, nền giáo dục cách mạng Việt Nam đã có những bước phát triển
mạnh mẽ, Từ chỗ 95% dân số mù chữ; đến nay đã có 95% dân số biết chữ. Hệ thống
giáo dục ngày càng hoàn thiện. Trước cách mạng tháng tám cả nước chỉ có ba
trường trung học phổ thông, nay đã có trên 80.000 trường với hơn 800.000 giáo
viên từ mầm non đến đại học, trên đại học, đang góp phần đào tạo nguồn lực bồi
dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc
chăm sóc sức khỏe cho các tầng lớp nhân dân cũng đã được quan tâm đến tận vùng
sâu, vùng xa. Tuổi thọ trung bình là 78. Thể của người Việt Nam đã được cải
thiện hơn trước.
b.
Những hạn chế của việc phát huy nguồn
nhân lực ở Việt Nam.
Do nhận
thức, có giai đoạn chúng ta tuyệt đối tính xã hội của con người, coi nhẹ mặt tự
nhiên, chưa quan tâm tới nhu cầu vật chất, chưa thật sự chú ý tới lợi ích cá
nhân người lao động. Có lúc đã đồng nhất lợi ích cá nhân với chủ nghĩa cá nhân,
đề cao quá mức tính giai cấp, coi nhẹ tính nhân loại không chú ý kế thừa những
giá trị truyền thống dân tộc, ít chú ý tới giáo dục gia phong cho con cái. Vì
thế, dẫn đến những khiếm khuyết về nhân cách, cho nên đã có một bộ phận thanh
niên không chịu học tập rèn luyện, thiếu quyết tâm phấn đấu vươn lên tu thân
lập nghiệp, nghiện hút, cờ bạc len lỏi vào bộ máy Nhà nước, một bộ phận cán bộ
có chức có quyền đã lợi dụng quyền hạn để tham nhũng cửa quyền, vi phạm quyền
dân chủ của công dân; làm biến dạng nhân cách con người, để cho không ít kẻ cơ
hội, hữu khuynh chui vào tổ chức Đảng, Nhà nước đang tác động không nhỏ tới
niềm tin của thế hệ trẻ hôm nay.
-
Trong giáo dục đào tạo, phương pháp giáo dục
chưa kích thích được tính sáng tạo của người học, chưa gắn lý luận với cuộc
sống, cho nên không ít sinh viên sau khi ra trường khó xin việc, bỏ nghề, gây
lãng phí cho gia đình, xã hội. Cơ cấu đào tạo giữa các ngành, giữa các bậc học
chưa hợp lý, dẫn tới tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ như hiện nay. Nhìn
chung việc đào tạo, sử dụmg cán bộ hiện nay còn nhiều bất cập. Tình trang thiếu
việc làm trong thanh niên đang tạo sức ép lớn cho xã hội. Những hạn chế đó là
do những nguyên nhân sau:
+ Thứ
nhất, nước ta là nước nông nghiệp, năng suất lao động còn rất thấp, đời sống
của nhân dân còn rất nhiều khó khăn, tình trạng nghèo đói còn tồn tại trong một
bộ phân dân cư, việc chăm sóc đảm bảo cho những điều kiện cho con người phát
triển toàn diện còn hạn chế.
+ Thứ hai, trải qua nhiều năm chiến tranh,
dồn sức ngưới sức của để giải phóng miền Nam thống nhất đất nứơc chúng ta không
có điều kiện chăm sóc cho con người, mặt khác hậu quả chiến tranh còn để lại
rất nặng nề ngày nay vẫn phải tiếp tục khắc phục.
+ Thứ ba, những tập quán, thói quen của
người sản xuất nhỏ như thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, cách nhìn thiển cận, tâm
lý tự ti, tính vị kỷ, cục bộ địa phương, gia trưởng trong giáo dục, cũng như
khi đánh giá con người, v.v…
+ Thứ
tư, trong quá trính chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc
tế, một mặt cũng tạo ra những tác động tích cực, mặt khác cũng ảnh hưởng tiêu
cực như: lối sống thực dụng, chạy chức, chạy quyền, vì tiền mà không ít người
có thể làm mọi việc bất chấp luân thường đạo lý. Điều đó gây ra những tác động
xấu trong xã hội.
+ Thứ
năm, đầu tư cho giáo dục còn hạn chế, công tác quản lý giáo dục - đào tạo có
những mặt yếu kém, bất cập, tình trạng tiêu cực trong giáo dục còn đang phổ
biến ở nhiều nơi, chất lượng giáo viên còn hạn chế đang ảnh hưởng tới chất
lượng đào tạo, trực tiếp ảnh hưởng tới việc phát huy nguồn nhân lực trong giai
đoạn hiện nay.
+ Thứ
sáu, những yếu kém trong quản lý Nhà nước, hệ thống luật pháp chưa đồng bộ, tính
gia trưởng, bảo thủ trong một số cán bộ có chức có quyền, tâm lý đố kỵ, ghen
ghét với những người có năng lực của một số người đang làm hạn chế phát huy
nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
4.
Phân tích những phương hướng, giải pháp phát huy nguồn lực con người Việt Nam
hiện nay?
b.
Phương hướng:
-
Một là, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, mà thực chất là chuyển từ lao dộng thủ công sang lao động cơ khí
máy móc. Nó có tác dụng vừa làm thay đổi thói quen của nền sản xuất nhỏ, vừa
tạo điều kiện để nâng cao mức sống nhân dân. Đồng thời nó cũng đặt ra những
thách thức buộc người lao động phải phấn đấu vươn lên, nếu họ không muốn bị đào
thải khỏi dây chuyền sản xuất. Có thể nói đây là môi trường tốt nhất để bồi
dưỡng nguồn lực con người và đến lượt con người sẽ là yếu tố quyết định cho sự
thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
-
Hai là, từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống
chính sách xã hội, với mục đích nhằm nâng cao năng suất lao động, công bằng
trong phân phối, tạo điều kiện cho người lao động học tập phấn đấu, cống hiến
sức mình cho xã hội góp phần vào phát triển kinh tế đất nước.
-
Ba là, từng bước xây dựng và không ngừng hoàn
thiện cơ chế quản lý trên cơ sở nhân dân lao động là người làm chủ kinh tế,
chính trị, văn hoá tư tưởng…Do vậy, xã hội phải tạo ra những điều kiện cho
người lao động tham gia tích cực vào công việc quản lý xã hội, quản lý kinh tế,
quản lý nhà nứơc, thông qua đó mà họ tích cực góp tài năng, trí tuệ cho xã hội.
b.
Một số giải pháp phát huy nguồn lực con
người ở nước ta hiện nay:
+ Thứ nhất, trong lĩnh vực kinh tế: nhanh
chóng thực hiện giao đất, giao rừng cho nông dân, tạo điều cho người người lao
động làm chủ tư liệu sản xuất ở mọi thành thành phần kinh tế. Phát động nhân
dân đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
của địa phương, của doanh nghiệp, của đơn vị, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần cho người lao động trên cơ sở thực hiện phân phối công bằng, dân chủ, công
khai. động viên mọi người dân bỏ vốn sản xuất kinh doanh, khai thác thế mạnh
của địa phương, phát triển ngành nghề truyền thống, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy trình độ tay nghề, năng lực quản
lý kinh doanh của mỗi thành viên trong xã hội để cùng với Nhà nước giải quyết
những khó khăn của đất nước. Giáo dục đạo đức, khơi dậy lương tâm nghề nghiệp,
nêu cao trách nhiệm của mỗi người trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
Cần làm cho mọi người thấy được trách nhiệm của mình là phải lao động nghiêm
túc, có chất lượng, có hiệu quả, tạo ra hàng hoá tốt, nâng cao chất lượng dịch
vụ. Điều đó vừa tạo điều kiện cho xã hội phát triển, vừa là điều kiện cho hoạt
động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Phê phán mạnh mẽ thói lười biếng, làm
bừa, làm ẩu, ngăn chặn làm ăn phi pháp, phi đạo lý.
+ Thứ
hai, trong lĩnh vực chính trị: nâng cao trình độ nhận thức cho mọi người để họ
có thể tham gia có hiệu quả vào các công việc của các tổ chức trong hệ thống
chính trị như kiểm tra giám sát thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng để người
dân thực sự là người làm chủ đất nước.
+ Thứ
ba, trên lĩnh cực xã hội: Từng bước khắc phục đi tới loại bỏ những phong tục,
tập quan lạc hậu, những quan hệ không bình đẳng, xây dựng quan hệ mới giữa
người với người trên tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất kinh
doanh, trong đời sống xã hội. Xây dựng quan hệ bình đẳng, hữu nghị giúp đỡ lẫn
nhau giữa các dân tộc, giữa các quốc gia. Có biện pháp làm giảm dần khoảng cách
chênh lệch trên mọi lĩnh vực giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng lãnh thổ.
Quan tâm tới những hộ nghèo, những gia đình khó khăn, những hộ chính sách xã
hội, những vùng sâu, vùng xa tạo ra cơ hội phát triển cho mọi người, làm cho
mọi người dân đều được hưởng những thành quả y tế, giáo dục văn hoá.… Thực hiện
chính sách xoá đói, giảm nghèo; tập trung giải quyết việc làm cho người lao
động; trên cơ sở đó, người lao động mới có điều kiện nâng cao trình độ tri
thức, trình độ tay nghề, mới có môi trường rèn luyện phấn đấu, cống hiến sức
mình cho đất nước, cho xã hội.
+ Thứ tư, trên lĩnh vực giáo dục vào đào
tạo. Phải xem “giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”
đáp ứng như cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Đảng và Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội và gia đình phải quan tâm tới giáo dục hơn nữa. Nội dung
giáo dục phải phản ánh được những tri thức của thời đại, những thành tựu mới
nhất của khoa học công nghệ, phải giáo dục lòng yêu nước, ý thức tự cường dân
tộc, phương pháp dạy phải kích thích được tính sáng tạo của người học. Phương
pháp học phải độc lập tự chủ, biết vận dụng kiến thức đã học vào giải thích và
giải quyết những vấn đề thực tiễn cuộc sống đang đặt ra nhằm rút ngắn khoảng
cách giữa Việt Nam và các nước trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, đòi hỏi
chúng ta phải phấn đấu nhiều hơn nữa.
+ Thứ
năm, trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, nghệ thuật: phải xem văn hoá nghệ thuật
là nhằm phục vụ tốt cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; đã động viên
được nhân dân tích cực tham gia trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, do
đó văn hoá nghệ thuật phải tích tham gia tích cực vào sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước, vì vậy phải có thái độ phê phán nghiêm khắc một số văn nghệ sĩ
trí thức đi lệch hướng, chạy theo thị hiếu thấp hèn, dễ dãi của một bộ phận
thanh niên thiếu giáo dục. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, phê
phán những tư tưởng phản động đang tìm cách phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam. “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn
và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, “nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị, tạo nên sự thống nhất hơn
nữa trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng, chặn đà suy thoái về đạo đức, lối sống”.
Trước yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đòi hỏi nhà văn, nhà thơ, nhạc
sĩ, nghệ sĩ, phải nâng cao trách nhiệm của mình trong sáng tác, biểu diễn,
không vì đồng tiền mà bán rẽ lương tâm, vô trách nhiệm với đất nước.
Phải tăng
cường hơn nữa công tác quản lý của Nhà nước trong hoạt động sáng tác, biểu diễn
làm cho văn học nghệ thuật phải trở thành vũ khí, phương tiện cổ vũ cho cái
hay, cái đẹp, góp phần xây dựng lối sống lành mạnh, nâng cao những giá trị nhân
văn, phát huy những giá trị tốt đẹp trong con người Việt Nam.
1. Để phát huy nguồn lực con người ở Việt
nam hiện nay, thanh niên, sinh viên nứơc ta cần phải làm gì? Vì sao lại như
vậy?
2. Anh ( chị) hãy phân tích luận điểm của
Mác: “ Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội”?
+ Con người vừa là thực tế tự
nhiên, thực thể xã hội.
+ Những yếu tố xã hội mới tạo
nên bản chất người của mỗi con người trong xã hội?
+ Ý nghĩa rút ra khi nghiên
cứu luận điểm này.